›› Lâm Đồng qua báo chí

Thứ hai, ngày 13/11/2017 01:56:32 GMT+7 | lượt xem: 463

Bút ký: Ấn tượng dã quỳ

Ở cao nguyên miền Trung, tín hiệu từ đất trời để thiên hạ biết dứt mùa mưa là khi thấy cây quỳ dại trổ bông. Đây là lúc tôi đi lang thang... Rồi một mùa, tôi nhận ra thời khắc này là bản trường thi của thiên nhiên.

Sắc vàng huyền hoặc

Ở xứ Đức Trọng (Lâm Đồng) này, vùng bình nguyên rộng lớn dưới chân cao nguyên Langbian, màu vàng dã quỳ làm người ta thảng thốt, nhất là sườn núi Voi nối với dãy Pnơm Panơ. Màu vàng cứ thế giăng lê thê xen giữa màu xanh đứt quãng của những cánh rừng thông, hoặc những vườn cà phê của người Cill nương trú trên sườn núi. Từ ấp Quảng Hiệp nhìn lên, chỏm vàng của hoa, chỏm xanh của cây nông nghiệp, chỏm nâu của đá, chỏm đỏ của đất, cứ như quang phổ nơi mặt đất, sắc màu chơi trò trốn tìm. Cảnh vật cứ rải khắp nơi và mê man thế, như thách thức thị giác cũng như trái tim của con người. Kìa nữa, cả phi trường Liên Khương phủ xuống một màu vàng thanh nhã, ngoại trừ cái đường băng. Chỉ ông Trời mới đủ sức “trồng” một lúc cả hàng ngàn hécta hoa như thế rồi bỏ giữa trời. Sân bay đang ngồi đấy mà cứ như đang trôi, như không có thật. Vàng mênh mông quá, khiến cái sân bay cũng thành chốn mơ tưởng. Ngọn núi lửa R’Chai xa xưa danh tiếng đội lên giữa bình nguyên mang vóc dáng đôi ngực trần phụ nữ cũng bỗng mặc vào chiếc áo ngực vàng thê thiết. Trò chơi tạo hình. Trời cao đã vẽ ra một bức tranh sự sống. Con người được ngắm miễn phí. Thế này thì cũng cần gì phải tìm nó trong tranh của ngài Vincen van Goth, cho dù là danh họa, bậc thầy sáng tạo sắc vàng mùa màng trên vải.

Thiên nhiên bỗng phát ra ngôi lời sang sảng, phát vào vô tận, như một cuốn kinh trời, không trang cuối, mà ở đó có ý tứ về giai điệu, khúc thức, cung bậc, có khoảng thăng khoảng giáng.

Ngang qua vùng người K’ho bản địa ở buôn Srê Đăng, N’Thôl Hạ, tôi hỏi họ về cây dã quỳ - Pơtăng. Họ bảo khi còn xanh nó cũng chỉ như bao cây khác thôi, thường. Và cũng không coi nó ở vị trí cây hoa, nên nghĩa của Pơtăng là cây có lá đầy vị đắng. Ấy thế mà khi trào hoa dậy, nó khác hẳn, thành một thực thể khác. Từ vô chủ, vô hồn, sang có hồn và đa chủ. Từ chỗ hàng ngày đi về không để ý, chuyển sang phải để ý, ngắm nhìn, thừa nhận, bình luận hoa mùa này xấu hay xinh hơn.

 

Thắm đượm tình hoa

Chả có loài hoa nào trên đời mà tác động sâu rộng vào quần chúng sơn cước như nó. Hoa gì mà chi phối nhịp sống buôn này nối làng kia, bon này sang plei nọ, cả ấp, cả xã, cả huyện, cả tỉnh, cả cao nguyên, cả núi đồi, thung lũng, và mùa trong trời đất. Khách đồng bằng chẳng sống đời ở kiếp cao nguyên, chỉ tạt qua, nhưng cũng khó mà thoát khỏi niềm rạo rực. Hoa chậu, hoặc cắt cành thương mại, người ta cảm xúc chút rồi thôi. Thứ hoa hoang dại này thì dai dẳng, lê thê cảm xúc, dù vừa quen vừa lạ, gần đấy mà thấy xa, hoang vắng, cắt nghĩa không nổi. Hoa gì mà khi đứng trước nó, tôi phải vừa dùng mắt lẫn miệng. Ngắm và xúc cảm chưa đủ, mà nhiều lúc phải la lên. Nó thuộc về hoa dân gian. Vì mang tính dân gian nên nó có chiều sâu. Vì có hồn, có vía nên vĩnh cửu. Nó chi phối xứ sở này nhất, nhưng là loài không tham gia “Festival hoa quốc gia” hai năm một lần ở “Vương quốc hoa” Đà Lạt trên kia. Chính nó đã thành lễ hội, cứ mùa là vàng lên. Nó ngang tàng và ngạo nghễ, nở vang cả bầu trời. Ngạo nghễ như chính nó thách đố phòng công nghệ sinh học của Viện nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt trong việc cố dùng kỹ thuật hạt nhân để làm “lùn” nó lại theo ý tưởng đặt hàng của ngành thương mại và du lịch sở tại, từ ba thước còn độ hai chục centimet để đưa ra đất thành công, biến thành loài hoa thương mại hoặc trang trí. Người ta thất bại. Trong thiên nhiên huyền bí không phải cái gì loài người kia cũng đe dọa, thuần dưỡng, tóm tóc để biến thành nô lệ được; thay đổi cấu trúc gen, biến đổi cho bằng hết những điều vốn thiện lành căn bản của trời đất.

Sắc dân bản địa K’ho bảo cái chu kỳ xanh và vàng kia của Bơtăng thân quen nhưng khiến họ mơ tưởng. Họ khuyên tôi hãy “chết chìm” trong nó, trong Bơkào (hoa) Bơtăng, vào mùa vàng dậy, sẽ thấy thiên nhiên huyền bí, sẽ gần, hiểu và yêu trời đất, vạn vật hơn. Thế mới được như cây Bơtăng, “chết” rồi lại tái sinh; ẩn mình như thiền sư, nỗ lực, bền bỉ, thâm hậu, quyết liệt đổi thay để có sức sống, hiện hữu, được “mới”. Một dòng dõi thực vật nhạy cảm, luân hồi. Nó luân hồi theo kiểu của mình, vòng quay mưa - nắng. Tất nhiên, người K’ho cũng như dân cày nhập cư mới dưới bình nguyên kia không cần biết dã quỳ là loài cây theo phân loại thực vật thuộc họ cúc, loài Tithonia diversifolia. Và tất nhiên họ cũng không cần biết thứ cây đắng ngắt của quê xứ bỗng một ngày được chúng sinh xa gần quan tâm. Lại càng chẳng hơi đâu để ý từ cái tên quỳ, sơn quỳ, cúc quỳ, hướng dương dại, một loại cây “phân xanh”... bỗng thành danh mỹ miều “dã quỳ” và tự nhiên đi vào văn chương ở miền Nam kể từ thập niên 1970. Cũng không bận tâm với việc vùng Mae Hong Son của Thái Lan lấy nó làm biểu tượng của tỉnh.

Chuyện nước Nhật ngoài đại dương kia vào cuối thời Minh Trị đã từng “nhập khẩu” Bơtăng về xứ sở mặt trời Amaterasu với tư cách cây hoa cảnh lại càng không biết. Không độc quyền riêng của xứ sở nào, cây dã quỳ là “nhân vật” của mùa khô, sản vật chung của thế gian, mọi cánh rừng nhiệt đới. Chỉ cần khi nó ở quê tôi, tôi biết hơi thở của nó, buồn vui của nó, là cây thân, người thân.

* * *

Nhưng cái gì trong trời đất cũng có quy luật từ thiên nhiên. Thiên hạ cứ rạo rực với “Mùa vàng lên” cũng bởi nó là màu của sự tinh khôi, “tin vui”, phúc lạc, của minh triết từ trời đất... Song màu vàng hoa dã quỳ, với dân gian, nó thánh thiện hơn vì chỉ tồn tại ở trạng thái tâm hồn, lung linh, trao đổi chất tự nhiên, nên không xuất hiện trò ăn gian hay nhân danh bất cứ gì từ mẹ vũ trụ. Tôi là một bộ phận của dân gian ấy. Tôi cứ cầm máy ảnh và mang tâm hồn thoát tục đi mãi như thế này giữa mùa vàng mênh mông tinh khiết. Tôi bấm mỏi tay, đẫm mồ hôi, thì cũng như những hiền nhân đang cày trên những vườn lơghim kia. Nhớ giùm cho, loài cây “đón nắng”, chở gió về. Đó là mùa gió bàng bạc, lang thang, thổi mà như hát. Cả cái cao nguyên này như thế. Nó đẩy lùi mọi chộn rộn trong đầu và xáo trộn trong tâm. Tôi mặc cả mùa vàng của dã quỳ vào xác thân bé mọn này chứ không phải chỉ một tấm y như tu sĩ ở chùa son để lướt đi qua những rặng quỳ ở Tru Tra, Bồng Lai, Định An, Đại Ninh. Và những cái nghĩa địa phủ đầy hoa dã quỳ kia thì nó nhắc nhớ tôi về sự phù du của kiếp người, về sự chuyển hóa.

* * *

Đang đi giữa mùa quỳ, nhưng tôi cứ sợ “hết” mùa. Như con ong đi lấy mật đường từ nó, tôi đi lấy mật tình, hồn hoa.

Một tháng hơn thôi, độ dài mùa quỳ dại, kể từ ngày bông đầu tiên trổ đến khi như cố vàng thêm chút nữa bởi những bông cuối cùng cũng đủ khiến lòng tôi nhảy múa, thung sâu đến núi đồi xôn xao. Dù biết hoa đang nở là hoa đang tàn, mùa đã đến là mùa đang qua, và mùa vàng sẽ khép lại khi cây Bơtăng trơ ra như rặng san hô trên cạn. Tôi nhủ mình yên tâm đi, ngay đấy rồi nó trỗi dậy những mầm xanh, rồi hứng gió, hứng mưa, chống chọi thiên tai lẫn nhân tai để tìm trần ai mà lên, hẹn mùa hoa sau. Chỗ nào đất trống, dù còn một thẻo chút hoang sơ là vẫn tìm cách tồn tại và trổ hoa theo kỳ hẹn. Bơtăng là loài cây kiên cường mà. Đào luyện cỡ đó nó mới thành sứ giả của mùa, ngôn sứ, thành “nghệ thuật” trời đất, làm nên hồn vía của quê hương.

Có những loài thực vật không thể thiếu với người, cho dù không “ăn” được.

Những tiểu thư nhà giàu mong manh và những đứa trẻ cũng như bố mẹ của nó cứ thích ngắm dã quỳ, rồi lại “đổ thừa” vì cái phấn hoa của nó mà ho sù sụ. Giao mùa mà, nắng lên thì lạnh cũng tràn về. Nắng lạnh, nóng mà lại thấu xương, dễ đổ bệnh, thì cũng không phải lỗi của dã quỳ rồi.

Dã quỳ, mi vàng chi mà rót ruột rót gan, xả hết nhựa để vàng hết mình đến thế. Hết hoa là mi gục rã xác thân, hết một chu kỳ. Mi là loài hoa “bình dân ồn ào”, và được chờ đợi nhiều nhất. Tất nhiên mi có để ý tới con người bao giờ. Sáu tháng nung nấu, mùa mưa, để trỗi dậy mênh mông. Mi càng vàng da diết thì càng làm con người tê dại, giống loài còn nhạy cảm nhiều chiều hơn mi. Mi là tín hiệu của sự thiện lành, nguyên bản.

Hoa dã quỳ bên đường

Bài và ảnh: Nguyễn Hàng Tình

Nguồn: http://www.khoahocphothong.com.vn/

 



 

Tin khác

SÁCH NÓI

BẢN QUYỀN THUỘC THƯ VIỆN LÂM ĐỒNG

Địa chỉ: 14 Trần Phú - Phường 3 - Thành Phố Đà Lạt - Tỉnh Lâm Đồng.

Điện thoại : (+84) 2633 822 162 Email: thuvientinhlamdong@gmail.com

Phát triển bởi Phòng Tin Học - Thư viện Lâm Đồng -  Lượt truy cập: 5815824 - Online: 27